Một độc giả thuần thục thường hoàn thành tất cả công đoạn này cùng một lúc. Bạn không cần quan tâm đến nhân cách của tác giả hay tìm hiểu hoàn cảnh xã hội và kinh tế của họ. Rõ ràng, những từ được dùng theo cách đặc biệt là tối quan trọng đối với tác giả.
Nhận xét thứ ba cũng liên quan tới hai nhận xét đầu. Nếu bạn muốn diễn đạt chính xác tính chỉnh thể của một cuốn sách (quy tắc 2), bạn phải chỉ rõ được những phần đã làm nên tính chỉnh thể ấy (quy tắc 3). Các tác phẩm viết theo kiểu này có thể là các công trình có tính trang trọng và khó đọc như các tác phẩm của Kant hay các bài luận triết học thông thường.
Vì thế bạn phải đọc các câu đó chậm hơn hẳn và cẩn thận so với các câu còn lại. Còn trong một cuốn bách khoa toàn thư sắp xếp theo chủ đề, chúng thường được đánh dấu rõ ràng, nhưng điểm bất lợi là trong số những dữ kiện đó sẽ có những thứ mà người đọc không quen dùng. Bạn sẽ nhanh chóng liệt kê được những từ quan trọng mà Adam Smith sử dụng như: lao động, vốn, đất đai, lương, lợi nhuận, sự thuê mướn, hàng hoá, giá cả, trao đổi, tiền,… cũng như các từ chuyên môn mà Darwin dùng như: tính đa dạng, giống loài, sự chọn lọc, sinh tồn, thích nghi, lai, đấu tranh,…
Ta chỉ nên sử dụng để xoá bỏ những mâu thuẫn về những điều là sự thật hiển nhiên. Ba quy tắc đọc phân tích về thuật ngữ, nhận định và lập luận nêu trên đều nhằm phục vụ cho quy tắc 8 - bước cuối cùng trong quá trình làm sáng tỏ nội dung một cuốn sách. Ví dụ, khi đọc một tác phẩm về kinh tế, tiêu biểu như cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith, nếu bạn cứ nhất quyết phải hiểu tất cả những gì đọc được trong mỗi trang rồi mới đọc trang tiếp theo, thì bạn sẽ không đọc lâu được.
Có thể coi điều này là cách tác giả bộc bạch những suy nghĩ của bản thân. Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia? Nó không những là cuốn sách được nhiều người đọc nhất mà còn là cuốn sách được đọc kỹ nhất trong tất cả các cuốn sách.
Theo họ, tất cả chỉ là vấn đề quan điểm. Chính người La Mã mới là những người đầu tiên thấy được sự cần thiết phải có bách khoa toàn thư. Loại phương tiện hỗ trợ thứ ba của quá trình đọc bao gồm các lời bình và các bài tóm tắt.
Đoạn độc thoại bị cắt ngang khi chàng trông thấy Ophelia. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến ý nghĩa đơn giản nhất của nó. Thứ ba, nếu áp dụng cách đọc này với nhiều chủ đề khác nhau thì cùng một đoạn văn được trích dẫn trong Syntopicon về hai hay nhiều chủ đề sẽ có tác dụng hướng dẫn.
Suốt thế kỷ XIX, tại châu Mỹ, người ta chủ yếu dùng phương pháp ABC để dạy học đọc. Tương tự, bạn không thể vặn lại những quy định của một nhà khoa học chân chính khi đọc tác phẩm của ông ta. Bạn chỉ mệt mỏi vì thất vọng nếu cố gắng của bạn bị thất bại do thiếu kỹ năng.
Lúc này, bạn sẽ nhớ lại bước đầu tiên một người đọc phân tích phải làm là trả lời câu hỏi Cuốn sách đó thuộc loại nào?. Họ cho rằng, niềm tin vào bổn phận như một quan niệm đạo đức có giá trị là điều phi thực tế. Khi đã quen với các nhân vật trong truyện, bạn có thể tìm ra mối liên hệ giữa họ trong thế giới tưởng tượng mà họ đang sống, chấp nhận các quy định xã hội của họ, hít thở bầu không khí, thưởng thức đồ ăn của thế giới đó và theo học tới cùng qua các cuộc phiêu lưu.
Bạn phải nhận ra một lập luận ngay khi thấy nó. Như Emerson nói về cái đẹp rằng nó là lý do tồn tại của chính nó. Đối với sách triết học, bạn cũng nên quan tâm đặc biệt đến các nguyên tắc của các triết gia.